Thành phần
Thành phần hoạt chất: Digoxin 0,25mg
Thành phần tá dược: lactose monohydrat, tinh bột lúa mì, talc, magnesi stearat, natri starch glycolat.
Công dụng
Digoxin được chỉ định để điều trị suy tim sung huyết.
Digoxin có thể được dùng trong một số trường hợp rối loạn nhịp trên thất nhất định, đặc biệt là rung nhĩ.
3. Cách dùng - Liều dùng
Liều dùng:
Liều được đề xuất chỉ nhằm mục đích hướng dẫn ban đầu, mỗi bệnh nhân phải được điều chỉnh riêng theo độ tuổi, cân nặng và chức năng thận:
Trong trường hợp bệnh nhân đã dùng glycosid tim hai tuần trước đó, nên xem xét lại liều ban đầu của bệnh nhân và nên giảm liều.
Cần chú ý sự khác biệt về sinh khả dụng giữa digoxin đường tiêm và digoxin đường uống khi chuyển từ đường dùng này qua đường dùng kia. Ví dụ, nếu bệnh nhân được chuyển từ uống sang tiêm tĩnh mạch, liều digoxin phải giảm khoảng 33%.
Người lớn và trẻ em trên 10 tuổi:
Liều khởi đầu nhanh:
Dùng liều 0,75 mg -1,5 mg dưới dạng một liều duy nhất. Nếu có nguy cơ cao hơn hoặc ít khẩn cấp hơn, liều khởi đầu đường uống nên được chia liều cách nhau mỗi 6 giờ, đánh giá đáp ứng lâm sàng trước khi cho liều bổ sung.
Liều khởi đầu chậm:
Dùng liều 0,25 - 0,75 mg mỗi ngày trong một tuần, sau đó dùng liều duy trì thích hợp.
Bệnh nhân nên có đáp ứng lâm sàng trong vòng một tuần.
Sự lựa chọn giữa liệu pháp nhanh hay chậm phụ thuộc vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân và mức độ khẩn cấp của tình trạng này.
Liều duy trì:
Liều duy trì nên dựa trên tỷ lệ phần trăm lượng thuốc giảm đi mỗi ngày của từng bệnh nhân thông qua thải trừ. Công thức tính toán sau đây đã được sử dụng rộng rãi trong lâm sàng:
Liều duy trì = liều khởi đầu x [(14 + độ thanh thải creatinin (Ccr)/5)]/100
Ccr là độ thanh thải creatinin tính theo 70 kg cân nặng hoặc 1,73 m2 diện tích bề mặt cơ thể. Nếu chỉ có nồng độ creatinin huyết thanh (Scr) thì có thể ước tính tỷ lệ Ccr (tính theo 70 kg cân nặng) ở nam giới theo công thức sau:
Ccr = [(140 - tuổi) / Scr (mg/100ml)]
Khi giá trị creatinin huyết thanh tính theo micromol/l, có thể chuyển sang đơn vị mg/100 ml (mg/%) theo công thức sau:
Scr (mg/100ml) = [Scr (micromol/l) x 113,12] /10000 = Scr (micromol/l) / 88,4
Trong đó 113,12 là khối lượng phân tử của creatinin.
Đối với phụ nữ, kết quả này sẽ được nhân với 0,85.
Không thể sử dụng những công thức này cho độ thanh thải creatinin ở trẻ em.
Trong thực tế, hầu hết bệnh nhân suy tim được duy trì liều digoxin mỗi ngày từ 0,125 đến 0,25 mg; tuy nhiên ở những người nhạy cảm cao với các tác dụng phụ của digoxin, dùng liều 0,0625 mg mỗi ngày hoặc ít hơn. Ngược lại, một số bệnh nhân có thể cần liều cao hơn.
Trẻ em dưới 10 tuổi:
Ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là ở trẻ sinh non, độ thanh thải thận của digoxin giảm đi và việc giảm liều thích hợp phải được tuân thủ trên hướng dẫn liều chung.
Ngoài giai đoạn sơ sinh, trẻ em thường cần tỷ lệ liều cao hơn người lớn dựa trên thể trọng hoặc diện tích bề mặt cơ thể. Trẻ em trên 10 tuổi dùng liều người lớn theo tỷ lệ với thể trọng của trẻ.
Liều khởi đầu:
Nên thực hiện theo lịch trình sau:
Trẻ sơ sinh thiếu tháng dưới 1,5 kg: 25 mcg/kg/24h; Trẻ sơ sinh thiếu tháng 1,5 kg đến 2,5 kg: 30 mcg/kg/24h; Trẻ sơ sinh đủ tháng đến 2 tuổi: 45 mcg/kg/24h; Trẻ từ 2 đến 5 tuổi: 35 mcg/kg/24h; Trẻ từ 5 đến 10 tuổi: 25 mcg/kg/24h.
Nên chia liều khởi đầu thành nhiều lần uống với khoảng một nửa trong tổng liều được cho dùng tại liều đầu tiên. Và những phần liều còn lại trong tổng liều được cho uống cách khoảng mỗi 4 đến 8 giờ, đánh giá đáp ứng lâm sàng trước mỗi liều bổ sung.
Liều duy trì:
Liều duy trì nên thực hiện theo lịch trình sau đây:
Trẻ sơ sinh thiếu tháng: Liều hàng ngày = 20% liều khởi đầu trong 24 giờ.
Trẻ sơ sinh đủ tháng và trẻ em dưới 10 tuổi: Liều hàng ngày = 25% liều khởi đầu trong 24 giờ.
Những hướng dẫn lịch trình liều, theo dõi tình trạng lâm sàng và nồng độ digoxin trong huyết thanh nên được sử dụng làm cơ sở để điều chỉnh liều ở những nhóm bệnh nhi này. Nếu glycosid tim đã được cho trong hai tuần trước khi bắt đầu điều trị digoxin, liều digoxin tối ưu có thể sẽ ít hơn so với những liều khuyến cáo trên.
Với liều digoxin sử dụng cho trẻ em, nên sử dụng dạng bào chế phù hợp (ví dụ: dung dịch uống) dễ chia liều chính xác.
Người cao tuổi:
Suy giảm chức năng thận và thể trọng thấp ở người cao tuổi ảnh hưởng đến dược động học của digoxin, như vậy nồng độ digoxin huyết thanh cao và độc tính liên quan có thể xảy ra khá dễ dàng, trừ khi dùng liều digoxin thấp hơn so với những đối tượng bệnh nhân khác. Cần kiểm tra nồng độ dioxin trong huyết thanh thường xuyên và nên tránh hạ kali máu.
Suy thận:
Nên giảm liều khởi đầu và liều duy trì ở những bệnh nhân có chức năng thận suy giảm vì đường thải trừ chủ yếu của digoxin là bài tiết qua thận dưới dạng không đổi.
Bệnh về tuyến giáp:
Cần thận trọng khi dùng digoxin cho bệnh nhân có bệnh về tuyến giáp. Liều khởi đầu và liều duy trì của digoxin nên được giảm khi chức năng tuyến giáp bất thường. Trong bệnh cường giáp có sự kháng digoxin tương đối, do đó có thể phải tăng liều. Trong quá trình điều trị nhiễm độc giáp, nên giảm liều digoxin tới khi nhiễm độc giáp được kiểm soát.
Bệnh đường tiêu hóa:
Bệnh nhân có hội chứng kém hấp thu hoặc tái tạo hệ tiêu hóa có thể cần liều digoxin lớn hơn.
- Quá liều
Triệu chứng và dấu hiệu:
Các triệu chứng và dấu hiệu ngộ độc thường giống với các triệu chứng được mô tả trong phần tác dụng không mong muốn, nhưng có thể xảy ra thường xuyên và có thể nặng hơn.
Các dấu hiệu và triệu chứng ngộ độc digoxin xảy ra thường xuyên hơn với các nồng độ trên 2,0 ng/ml (2,56 nmol/l) mặc dù có sự thay đổi đáng kể giữa những bệnh nhân khác nhau. Tuy nhiên, trong việc kết luận liệu các triệu chứng của bệnh nhân có phải do digoxin hay không, tình trạng lâm sàng, nồng độ điện giải trong huyết thanh và chức năng tuyến giáp là những yếu tố quan trọng, ở những bệnh nhân thẩm tách máu, sử dụng digoxin có liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong; bệnh nhân có nồng độ kali trước thẩm phân thấp có nguy cơ cao nhất.
Người lớn: Ở người lớn không có bệnh tim, quan sát trên lâm sàng cho thấy quá liều digoxin từ 10 đến 15 mg là liều gây tử vong cho một nửa số bệnh nhân. Nếu liều digoxin hơn 25 mg dùng cho người lớn không bị bệnh tim, tử vong hoặc độc tính tiến triển chỉ đáp ứng với các phân đoạn kháng thể Fab gắn kết digoxin.
Những biểu hiện ở tim:
Các biểu hiện tim là dấu hiệu thường gặp và nghiêm trọng nhất khi ngộ độc cấp và mạn. Đỉnh tác dụng trên tim thường là 3 đến 6 giờ sau khi dùng quá liều và có thể kéo dài trong 24 giờ sau đó hoặc lâu hơn. Độc tính của digoxin có thể dẫn đến bất kỳ loại loạn nhịp tim nào. Thường gặp nhiều rối loạn nhịp trong cùng một bệnh nhân. Bao gồm nhịp nhanh nhĩ kịch phát với blốc nhĩ thất biến đổi (AV), tăng nhịp bộ nối, rung nhĩ chậm (với nhịp thất thay đổi rất ít) và nhịp nhanh thất hai hướng.
Các cơn co thất sớm (PVC) thường là chứng loạn nhịp xảy ra sớm nhất và thường gặp nhất. Nhịp đôi hoặc nhịp ba cũng xảy ra thường xuyên.
Nhịp chậm xoang và những nhịp tim chậm khác rất thường gặp.
Blốc tim độ 1,2,3 và phân ly nhĩ thất cũng thường gặp.
Độc tính sớm chỉ có thể được biểu hiện bằng cách kéo dài khoảng PR.
Nhịp nhanh thất cũng có thể là biểu hiện của độc tính.
Ngưng tim do vô tâm thu hoặc rung tâm thất do ngộ độc digoxin thường gây tử vong.
Quá liều digoxin cấp tính có thể dẫn đến tăng kali máu nhẹ do ức chế bơm natri-kali (Na+ - K+). Hạ kali máu có thể góp phần gây độc tính.
Những biểu hiện không ở tim: Các triệu chứng tiêu hóa rất thường gặp ở cả ngộ độc cấp và mạn tính. Các triệu chứng trước biểu hiện tim ở khoảng 1/2 số bệnh nhân trong hầu hết các báo cáo. Chán ăn, buồn nôn và nôn đã được báo cáo với tỷ lệ lên đến 80%. Những triệu chứng này thường xuất hiện sớm khi dùng quá liều.
Biểu hiện thần kinh và thị giác xảy ra ở cả ngộ độc cấp và mạn tính. Chóng mặt, rối loạn thần kinh trung ương, mệt mỏi và khó chịu rất thường gặp. Rối loạn thị giác thường xuyên nhất là việc nhìn màu sắc (màu vàng xanh chiếm ưu thế). Những triệu chứng thần kinh và thị giác này có thể tồn tại ngay cả khi các dấu hiệu độc tính khác đã được giải quyết.
Trong ngộ độc mạn tính, các triệu chứng không đặc hiệu không ở tim, ví dụ tình trạng khó chịu và yếu ớt, có thể chiếm ưu thế.
Trẻ em:
Trẻ em từ 1 đến 3 tuổi không có bệnh tim, quan sát lâm sàng cho thấy quá liều digoxin từ 6 đến 10 mg là liều dẫn đến tử vong ở 1/2 số bệnh nhân.
Nếu trẻ em từ 1 đến 3 tuổi không có bệnh tim uống hơn 10 mg digoxin thì toàn bộ bệnh nhân sẽ tử vong khi không được điều trị với phân đoạn Fab.
Hầu hết các biểu hiện ngộ độc mạn tính ở trẻ em xảy ra trong hoặc ngay sau khi quá liều digoxin.
Những biểu hiện ở tim:
Loạn nhịp tim tương tự hoặc loạn nhịp kết hợp xảy ra ở người lớn cũng có thể xảy ra ở bệnh nhi. Nhịp nhanh xoang, nhịp nhanh trên thất, và rung nhĩ nhanh ít gặp hơn ở trẻ em.
Bệnh nhi có nhiều khả năng xuất hiện rối loạn dẫn truyền nhĩ thất biến đổi (AV) hoặc nhịp chậm xoang. Ngoại tâm thu thất ít gặp hơn, tuy nhiên khi quá liều lớn, ngoại tâm thu thất, nhịp nhanh thất và rung thất đã được báo cáo.
Ở trẻ sơ sinh, nhịp chậm xoang hoặc ngưng xoang và/hoặc kéo dài khoảng PR là những dấu hiệu thường xuyên của ngộ độc. Nhịp chậm xoang thường gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Ở trẻ lớn hơn, blốc nhĩ thất biến đổi là những rối loạn dẫn truyền thường gặp nhất.
Bất kỳ rối loạn nhịp tim hoặc thay đổi trong dẫn truyền tim tiến triển ở trẻ em dùng digoxin nên được giả định là do digoxin, cho đến khi có thêm các đánh giá khác.
Những biểu hiện không ở tim:
Các biểu hiện thường gặp không ở tim tương tự như ở người lớn là đường tiêu hóa, thần kinh trung ương và thị giác. Tuy nhiên, buồn nôn và nôn ít gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Ngoài các tác dụng không mong muốn ở liều khuyến cáo, giảm cân ở nhóm bệnh nhân cao tuổi và kém phát triển ở trẻ em, đau bụng do thiếu máu cục bộ động mạch mạc treo, buồn ngủ và rối loạn hành vi bao gồm các biểu hiện tâm thần đã được báo cáo khi quá liều.
Điều trị:
Sau khi mới uống quá liều, ngẫu nhiên hoặc cố ý, ban đầu có thể giảm hấp thu bằng cách rửa dạ dày. Rửa dạ dày làm tăng trương lực phế vị và có thể thúc đẩy hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng loạn nhịp. Cân nhắc khi điều trị bằng atropine trước nếu có rửa dạ dày. Điều trị bằng kháng thể kháng digitalis Fab thường cho thấy không cần thiết rửa dạ dày. Trong những trường hợp hiếm gặp khi rửa dạ dày được chỉ định, chỉ nên được thực hiện bởi những nhân viên có đào tạo chuyên môn phù hợp.
Bệnh nhân uống lượng lớn digitalis nên dùng liều than hoạt tính lớn hơn để ngăn sự hấp thu và liên kết digoxin trong ruột trong quá trình tái tuần hoàn ruột.
Nếu có hiện tượng hạ kali máu, cần điều chỉnh bổ sung kali bằng đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch, tùy thuộc vào mức độ khẩn cấp của tình trạng này. Trong trường hợp uống lượng lớn digoxin, có thể tăng kali máu do phóng thích kali từ cơ xương. Trước khi dùng kali trong quá liều digoxin, phải biết trước nồng độ kali huyết thanh.
Nhịp tim chậm có thể đáp ứng với atropin nhưng có thể cần tạo nhịp tim tạm thời. Loạn nhịp thất có thể đáp ứng với lignocaine hoặc phenytoin.
Thẩm tách máu không đặc biệt hiệu quả trong việc loại bỏ digoxin khỏi cơ thể khi ngộ độc có khả năng đe dọa tính mạng.
Kháng thể đặc hiệu kháng digoxin Fab là phương pháp điều trị đặc hiệu khi ngộ độc digoxin và rất hiệu quả. Nhanh chóng đảo ngược các biến chứng có liên quan đến ngộ độc nặng digoxin, digitoxin và các glycosid liên quan khi dùng các phân đoạn kháng thể đặc hiệu (từ cừu) kháng digoxin (Fab) đường tiêm tĩnh mạch.
Chống chỉ định
Bệnh nhân quá mẫn với digoxin, các glycosid digitalis khác hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc.
Bệnh nhân bị loạn nhịp do nhiễm độc glycosid tim.
Bệnh nhân bị tắc nghẽn phì đại cơ tim, trừ khi bị rung nhĩ và suy tim đồng thời, nhưng vẫn nên thận trọng khi dùng digoxin.
Bệnh nhân loạn nhịp trên thất do đường dẫn phụ nhĩ thất, như trong hội chứng Wolff-Parkinson-White (WPW), trừ khi các đặc tính điện sinh lý của đường dẫn phụ và bất kỳ tác dụng có hại nào của digoxin đối với các đặc tính này đã được đánh giá. Nếu có hoặc nghi ngờ có đường dẫn phụ và không có tiền sử loạn nhịp trên thất trước đó, chống chỉ định sử dụng digoxin.
Bệnh nhân có blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc nhĩ thất độ hai, đặc biệt nếu có tiền sử bị Stokes-Adams.
Bệnh nhân có nhịp nhanh thất hoặc rung thất.
Chưa có bình luận